Trần Văn Trạch (1924- 1994), tên thật là Trần Quang Trạch, là nhạc sĩ, ca sĩ Việt Nam.
Với mái tóc dài cùng giọng ca trầm ấm, cộng thêm phong thái biểu diễn mới lạ, vui nhộn, độc đáo...ông được khán giả, báo chí trước 1975, phong tặng danh hiệu quái kiệt.
Trần Văn Trạch sinh tại làng Đông Hòa, quận Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho (nay thuộc tỉnh Tiền Giang), trong gia đình có truyền thống nhạc cổ và sân khấu tuồng.
Ông cố tên Trần Quang Thọ, vốn là một nghệ nhân nổi tiếng trong ban nhạc cung đình Huế. Khoảng năm 1860, ông Thọ xin từ nhiệm và di cư vào Nam.
Ông nội là nhạc sĩ Trần Quang Diệm (Năm Diệm, 1853-1925). Cha ông là Trần Văn Triều (Bảy Triều, 1897-1931) nổi tiếng trong giới cổ nhạc qua tiếng đàn kìm lên dây theo kiểu dây Tố Lan do ông sáng chế ra.
Ông Trạch có người cô thứ ba tên là Trần Ngọc Viện (Ba Viện, 1884-1944). Bà biết hát nhiều điệu hát, biết sử dụng nhiều nhạc cụ dân tộc, nhưng điêu luyện nhất là đàn thập lục (đàn tranh) và đàn tỳ bà. Bà chính là người đã thành lập gánh hát Đồng Nữ Ban vào khoảng năm 1927, với một điểm đặc biệt là tất cả các diễn viên đều là nữ, một hiện tượng duy nhứt trong lịch sử hát cải lương miền Nam. Và bà cũng là người nuôi dạy ba người con của ông Triều, khi vợ ông Triều là bà Nguyễn Thị Dành (1899-1930) mất sớm. Sau, cả ba người cháu này đều thành danh, đó là GSTS Trần Văn Khê, quái kiệt Trần Văn Trạch và ca sĩ Trần Ngọc Sương.
Phía bên ngoại, ông Trạch có cậu thứ năm tên là Nguyễn Tri Khương (1890-1962), tục gọi Năm Khương. Ông là cháu nội của danh tướng Nguyễn Tri Phương) và là một nhạc sĩ chuyên về sáo, lại thông hiểu về lý thuyết nhạc cổ. Cho nên khi bà Ba Viện lập gánh hát Đồng Nữ Ban, ông Khương trở thành soạn giả của gánh. Để phong phú thêm làn điệu, ông sáng tác ra những bài hát như: Thất trĩ bi hùng, Yến tước tranh ngôn, Phong xuy trịch liễu, Bắc Cung Ai... Và con của người cậu thứ tư (Nguyễn Tri Lạc) là nhạc sĩ Nguyễn My Ca (tên thật là Nguyễn Mỹ Ca), mất vào năm 1944 trong lúc kháng Pháp, người nhạc phẩm Dạ khúc, được nhiều người yêu âm nhạc buổi ấy biết đến.
Trần Văn Trạch là con trai thứ trong 3 người con của ông Trần Quang Triều. Ông có người anh là Trần Văn Khê và em gái út là Trần Ngọc Sương.
Thuở nhỏ, Trần Văn Trạch theo học chữ ở Collège de Mỹ Tho (trường trung học Mỹ Tho) cho tới năm 18 tuổi (1942) thì rời ghế nhà trường.
Ngay từ lúc nhỏ ông đã có năng khiếu về âm nhạc. Do vậy, ông sử dụng khá thành thạo đàn kìm và đàn tỳ bà. Tuy biết nhiều về cổ nhạc và có giọng hát ấm, nhưng ông lại thích tân nhạc hơn. Vì vậy, ông học đàn mandoline với anh là Trần Văn Khê và học đàn violon với Nguyễn Mỹ Ca, người anh cô cậu, và biết chơi thành thạo những bài nhạc Pháp thịnh hành thuở đó.
Ngoài niềm đam mê về âm nhạc, ông Trạch cũng thích việc kinh doanh, nên có thời gian ông lập ra lò làm chén ở Vĩnh Kim. Nhưng sau một vài năm làm ăn không khá, ông bỏ nghề lên Sài Gòn kiếm sống.
Năm 1945, sau khi Nhật Bản đầu hàng, quân đội Pháp trở lại Việt Nam, những phòng trà được phép mở cửa trở lại. Bắng tài năng của mình, buổi đầu Trần Văn Trạch xin vào làm hoạt náo và hát tại dancing Théophile ở vùng Dakao. Sau khi có được một số vốn, ông xin mở một phòng trà nhỏ ở đường Lagrandière (nay là đường Lý Tự Trọng, Thành phố Hồ Chí Minh).
Trong thời gian này anh sống với người vợ Pháp và có một đứa con. Vì thế anh bị những người theo Việt Minh kết tội là Việt gian. May mắn được anh trai Trần Văn Khê kịp nhờ người bảo lãnh, nên ông Trạch mới được tha nhưng phải gia nhập vào Ban nhạc quân đội của Việt Minh, rồi cùng với anh, đi lưu diễn khắp miền Tây. Khoảng năm 1946-1947, Trần Văn Trạch không theo ban nhạc nữa, về Sài Gòn, cùng em gái là Trần Ngọc Sương mở quán nước tại khu Bàn Cờ (nay thuộc quận 3, TP. HCM) Nhằm câu khách, đôi khi ông Trạch hát những bài nhạc Pháp cho lính Pháp nghe, nên ông được bạn bè đặt cho anh một cái tên rất "Tây" là Tracco.
Trong thời gian đi theo Ban nhạc quân đội, Trần Văn Trạch có quen nhạc sĩ Lê Thương (1914-1996). Phát hiện được khả năng hài tiềm ẩn trong con người ông Trạch, nên lần đầu tiên Lê Thương viết thử nghiệm một bài ca hài cho ông trình diễn. Ðó là bài Hòa bình 48 (1948) hát nhái tiếng đại bác, tiếng máy bay ném bom...
Được người nghe hoan nghênh, Lê Thương viết tiếp bài Liên Hiệp Quốc hát bằng tiếng Pháp, Anh, Nga, Tàu, bài Làng báo Sài Gòn phê bình các nhà báo nói láo ăn tiền, chạy theo thực dân Pháp...và cũng do ông Trạch hát. Chính vì vậy, Lê Thương, Trần Văn Trạch... đã bị cảnh sát mời vào bót Catinat ở mấy ngày.
Đến năm 1949, nhận thấy tân nhạc bắt đầu thịnh hành, Trần Văn Trạch nảy ra ý nghĩ mở Đại nhạc hội, là một chương trình văn nghệ bao gồm ca, vũ, nhạc, kịch, xiếc, ảo thuật...Với cách làm này, Trần Văn Trạch chinh phục được nhiều khán giả trên khắp mọi miền. Và kể từ đó cái tên đại nhạc hội bỗng trở nên phổ biến.
Năm 1951, bắt đầu từ rạp Nam Việt, ông Trạch đưa ca nhạc vào các rạp chiếu bóng để diễn trước giờ chiếu phim chính. Cách làm này cũng được nhiều người xem hoan nghênh và cụm từ "chương trình văn nghệ phụ diễn" cũng ra đời từ đó. Cũng năm này, vì nhu cầu trình diễn, ông Trạch đã tự sáng tác ra những bản nhạc hài hước để tự mình trình diễn lấy.
Source: wikipedia, loibaihat |
|